Nội dung Chiến_tranh_cục_bộ_(Chiến_tranh_Việt_Nam)

Người Mỹ cho rằng dù chương trình bình định đã phá sản, nhưng chính quyền Việt Nam Cộng hòa vẫn kiểm soát phần lớn các khu vực đông dân cư, thành phố, thị trấn, và các tuyến giao thông chiến lược. Các nước đồng minh Hoa Kỳ như Nhật Bản, Thái Lan, hay Hàn Quốc buộc phải ủng hộ chính sách can thiệp của Mỹ. Những phản ứng của khối xã hội chủ nghĩa lúc bấy giờ được Mỹ đánh giá là có "mức độ", chưa đáng lo ngại đối với chiến lược ở Việt Nam.

Lý thuyết về "chiến tranh cục bộ" của Hoa Kỳ xác định rằng một khi các "hoạt động lật đổ" ở Việt Nam lên đến đỉnh điểm và "lực lượng lật đổ" tổ chức được những đơn vị chủ lực mạnh thì phải dùng đến sức mạnh quân sự của Hoa Kỳ, trực tiếp xâm lược ở mức độ hạn chế. Họ cho rằng điều này có thể tiêu diệt được quân chủ lực còn non trẻ của đối phương trong thời gian ngắn nhất. Khi tiến hành chiến tranh cục bộ, người Mỹ hy vọng có cớ để huy động quân viễn chinh trong tình huống nguy cấp, từng bước phản công giành lại quyền chủ động trên chiến trường. Như vậy, khi đưa quân viễn chinh tham chiến trên quy mô lớn, tính toán của Mỹ không chỉ giới hạn ở việc gỡ thế thua, cứu nguy sự sụp đổ của chế độ Sài Gòn mà còn giành thắng lợi quyết định, nhanh chóng đảo lộn thế cờ.

Để thực hiện hóa mục tiêu trên, chính quyền Mỹ đề ra 3 giai đoạn được tiến hành trong vòng 2,5 năm:

- Giai đoạn 1: "chặn chiều hướng thua", triển khai nhanh lực lượng quân viễn chinh Mỹ.

- Giai đoạn 2: phản công chiến lược diệt chủ lực quân Giải phóng và kiểm soát khu vực nông thôn.

- Giai đoạn 3: tiêu diệt hoàn toàn khối chủ lực quân Giải phóng, phá căn cứ, tiếp tục bình định miền nam, rồi rút quân viễn chinh về nước vào cuối năm 1967.

Kế hoạch nói trên thể hiện rõ tham vọng của Wasghington nhằm tập trung lực lượng tiêu diệt chủ lực đối phương, bình định nông thôn, phá hoại cơ sở chính trị; đồng thời leo thang ném bom miền bắc Việt Nam, nhằm ngăn chặn mọi nguồn chi viện cho miền nam. Từ đó "chặn chiều hướng thua", dồn đối phương vào thế phòng ngự bị động, xoay chuyển cục diện chiến tranh, giành thắng lợi cho chiến tranh trong thời gian ngắn bằng lực lượng Mỹ.

Với mục tiêu, kế hoạch, biện pháp trên, chiến lược "chiến tranh cục bộ" có một số đặc điểm khác với chiến lược "chiến tranh đặc biệt".

- Mỹ đưa quân viễn chinh Mỹ vào trực tiếp tác chiến chống quân Giải phóng miền Nam Việt Nam. Quân viễn chinh Mỹ được huy động với quy mô lớn trong thời gian ngắn, kèm theo là một lượng lớn khí tài, vật tư, và bom đạn.

- Quân viễn chinh Mỹ tuy là lực lượng nòng cốt, nhưng quân lực Việt Nam Cộng hòa vẫn là một lực lượng hỗ trợ quan trọng. Quân Mỹ là lực lượng cơ động chủ yếu để "tìm diệt" chủ lực, quân Việt Nam Cộng hòa là lực lượng chiếm đóng để "bình định" lãnh thổ.

Chiến thuật Trực thăng vận lần đầu tiên được Mỹ sử dụng trong chiến tranh

Quân viễn chinh Mỹ và quân lực Việt Nam Cộng hòa đều có vai trò chiến lược nhằm áp đảo quân số. Cố vấn quân sự Mỹ tính toán mỗi tỉnh miền nam Việt Nam có 10000 đến 20.000 quân Việt Nam Cộng hòa đóng tại các xã ấp, tiêu diệt cơ sở chính trị, đẩy chủ lực quân Giải phóng lên các vùng hẻo lánh; cùng với sức mạnh không quân hiện đại của Mỹ và số lượng bom đạn khổng lồ sẽ khiến chủ lực quân Giải phóng sẽ bị đẩy vào thế khốn quẫn. Từ đó những đơn vị tinh nhuệ Mỹ sẽ giáng đòn quyết định "bẻ gãy xương sống" và đánh tan quân Giải phóng; nếu còn, họ cũng sẽ bị phân tán mà hoạt động riêng lẻ, khó thay đổi cục diện chiến tranh và đặc biệt là dễ bị lần lượt tiêu diệt khi cần thiết.

Vì hạn chế lực lượng quân Mỹ, cho nên Hoa Kỳ chú trọng củng cố quân đội Việt Nam Cộng hòa. Mỹ cho rằng nếu quân lực Việt Nam Cộng hòa được trang bị hiện đại, sẽ tạo ưu thế về binh lực, hoả lực, và sức cơ động để áp đảo đối phương; giúp Việt Nam Cộng hòa chiến thắng trong thời gian ngắn.

Nói chung, chiến tranh cục bộ với nỗ lực quân sự cao nhất mà Mỹ cần phải chủ động vẫn là một loại "chiến tranh hạn chế" trong chiến lược toàn cầu "phản ứng linh hoạt". Quy mô của chiến tranh tuy lớn, nhưng vẫn mang tính chất "chống nổi dậy" (counter insurgency) nhằm thực hiện mục tiêu chính trị của Mỹ ở miền nam Việt Nam. Nội dung của cuộc chiến tranh bao gồm ba bộ phận: tiêu diệt bộ đội chủ lực quân Giải phóng, "bình định nông thôn", nhằm phá hết cơ sở hạ tầng của cách mạng và phá hoại miền bắc chủ yếu bằng không quân nhằm đánh vào cái gọi là "nguồn gốc của sự nổi dậy". Đồng thời, tiến hành thương lượng hoà bình để buộc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chấp nhận những điều kiện mà Mỹ đưa ra.

Dựa vào ưu thế quân sự, với số quân đông, vũ khí hiện đại, hỏa lức mạnh, Mĩ vừa mới vào miền Nam đã cho quân mở ngay cuộc hành quân "tìm diệt" vào căn cứ quân giải phóng ở Vạn Tường (Quảng Ngãi). Tiếp đó, Mĩ mở liền hai cuộc phản công chiến lược mùa khô[5]: đông - xuân 1965-1966 và 1966-1967 bằng hàng loạt cuộc hành quân "tìm diệt" và "bình định"

Quân chủ lựcQuân Đồng minh của MỹQuân bản địa
Quân đội MỹHàn Quốc, Úc, New Zealand, Thái Lan, PhilipinesQuân đội Sài Gòn, quân chiêu hồi